Dòng họ 13 đời làm quan và bí ẩn của lời sấm truyền | Dòng Họ Trần Đình
Home » QUỸ KHUYẾN HỌC » Dòng họ 13 đời làm quan và bí ẩn của lời sấm truyền

Dòng họ 13 đời làm quan và bí ẩn của lời sấm truyền

(Dân Việt) – Tính đến nay, dòng họ Trần Đình đã có lịch sử phát triển trên 500 năm tại Quảng Trị. Cụ Trần Đình Truy (73 tuổi) là đời thứ 14 của dòng họ này đã kể một giai thoại kỳ bí về dòng họ mình…

Một dòng họ “phát” về đường quan

Thủy tổ của dòng họ Trần Đình ở làng Hà Trung, xuất thân là một quan lại triều Lê. Các đời tiếp theo đều nối nghiệp quan. Nổi tiếng nhất là ngài Trần Đình Ân, thuộc đời thứ 6, sinh năm 1626, mất năm 1706, làm quan đến chức Tham chánh chính đoán sự, tước Đông triều hầu, theo phò 4 đời chúa Nguyễn ở Đàng trong.

Ông Trần Đình Túc, đời thứ 11 dòng họ Trần Đình, làm quan đến Khâm sai đại thần.

Khi từ quan về trí sĩ, Trần Đình Ân đã được chúa Nguyễn Phúc Chu cấp ruộng đất, người hầu và còn tặng một bài thơ ca ngợi công lao: Tính khí ôn hòa giữ mực trung/ Bốn triều giúp việc biết bao công….

Một người nổi tiếng nữa là ông Trần Đình Túc, đời thứ 11. Ông Túc đỗ cử nhân khoa thi Nhâm Dần (1842) đời Thiệu Trị, được vào chân tri huyện, lần hồi được thăng lên Quản đạo Phú Yên. Đời Tự Đức, ông được tặng hàm Hồng lô tự khanh, trải qua các chức vụ Tán tương quân thứ ở Biên Hòa, biện lý Bộ Hình (Thứ trưởng coi về hình pháp), Dinh điền sứ Thừa Thiên – Quảng Trị (coi việc khai hoang), rồi gia phong Thị lang Bộ Hộ (Thứ trưởng thứ hai coi việc tài chính).

Gia phả dòng họ Trần Đình ghi rõ: Thủy tổ quý công khai canh chi thần là ngài Trần Văn Đông. Ông Đông gốc người làng Hà Mai, tổng Du Tường, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1470, ông Trần Văn Đông theo vua Lê Thánh Tôn đi chinh phạt giặc Chiêm Thành, rồi vâng lệnh vua, lập quê mới là làng Hà Trung (Đặt tên làng ghi nhớ nguồn gốc ở Thanh Hóa), tổng An Xá, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Tính đến nay, dòng họ Trần Đình đã có lịch sử phát triển trên 500 năm tại Quảng Trị.

Ông từng nhiều lần được triều đình nhà Nguyễn cử đi sứ. Về cuối đời, ông được phong hàm Khâm sai đại thần, tước Hiệp tá đại học sĩ (hàm tòng nhất phẩm). Không chỉ là nhà ngoại giao, nhà kinh tế, Trần Đình Túc còn là một nhà trước thuật. Ông có sáng tác thơ văn, tập hợp thành Tiêu sơn toàn tập và được xếp vào hàng các tác gia Việt Nam.

Dòng họ Trần Đình có dòng chính tại làng Hà Trung, xã Gio Châu, huyện Gio Linh, Quảng Trị. Làng Hà Trung có 3 dòng họ: Trần Đình, Trần Ngọc và họ Nguyễn, nhưng họ Trần Đình là đông nhất, chiếm trên nửa làng.

Chùa Bảo Đông của làng Hà Trung và khu bia mộ danh nhân Trần Đình Ân đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử quốc gia theo Quyết định số 2009 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa thông tin ký ngày 15.11.1991. Vào đời thứ 11, lúc ông Trần Đình Túc vào làm quan ở Huế thì đã khai sinh thêm một nhánh họ Trần Đình ở làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên – Huế. Nhánh này cũng có nhiều đời làm quan, như ông Trần Đình Thản (đời thứ 12) làm Cơ mật viện thừa biện.

Ông Trần Đình Khuyến (đời thứ 13) là người cuối cùng của dòng họ Trần Đình “phát” về đường quan lại. Ông sinh năm 1885, học trường Hậu Bổ (Huế), làm quan đến chức Quản đạo Ninh Thuận và Tri phủ ở các phủ Bồng Sơn (Bình Định) và Anh Sơn (Nghệ An).

Chuyện về hai bậc công thần

Năm 1703, khi ông Trần Đình Ân từ quan về quê, con cháu ruột của ông có trên 10 người đi theo phò chúa Nguyễn. Thế nhưng, ông lại không chọn người nào để tiến chúa mà chọn người con rể là Nguyễn Khoa Chiêm, tài đức vẹn toàn; từ tước vị Bảng trung tử được lên làm Bảng trung hầu, thay ông giữ chức đầu triều Tham chánh chính đoán sự. Đó là một việc làm hết sức trong sáng, tôn vinh người tài, khi chọn những bậc hiền nhân đức độ, phò vua trị nước.

Gửi phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

*

You may use these HTML tags and attributes: <a href="" title=""> <abbr title=""> <acronym title=""> <b> <blockquote cite=""> <cite> <code> <del datetime=""> <em> <i> <q cite=""> <strike> <strong>